Romario: Những ngày thế giới phát cuồng đôi chân Quỷ lùn
Bằng cách nào chúng ta có thể định nghĩa một chân sút thực sự là vĩ đại? Khả năng tận dụng cơ hội không một chút sai sót? Kỹ thuật điêu luyện cộng với những pha di chuyển sắc sảo?
Hay đó là khả năng tạo ra khoảnh khắc kỳ diệu trong những tình huống quan trọng nhất? Nếu một trong số đó, hoặc tất cả, được dùng để định danh thì Romário của Brazil chắc chắn phải là cái tên đầu tiên được nhắc đến trong bất kỳ cuộc tranh luận nào.
Giống như nhiều ngôi sao sáng giá khác của Nam Mỹ, câu chuyện của Romário de Souza Faria bắt đầu bằng hình ảnh quen thuộc: cái nghèo. Sinh năm 1966, anh ra đời ở Jacarezinho – khu ổ chuột lớn thứ hai của Rio de Janeiro. Cha anh, ông Edevair, rất mong con trai thoát khỏi cái đô thị nghèo nàn này và ông đã rất vui khi cậu nhóc bắt đầu thể hiện năng khiếu ở môn thể thao mà ông yêu thích.
Romário gia nhập Olaria ở tuổi 13 và ngay lập tức gây được sự chú ý. Dù vóc dáng nhỏ bé nhưng chàng tiền đạo trẻ khi ấy đã sử dụng trọng tâm thấp cùng đôi chân ngắn nhưng rất khỏe để làm lợi thế cho mình vượt qua đối thủ trước khi họ có thể trở tay. Sở hữu khả năng kiểm soát bóng bậc thầy qua những trận đấu gồm 30 người một đội ở trong những “khu rừng bê tông” cho tới những bãi biển cát trắng, cầu thủ người Brazil ấy thực sự là một cơn ác mộng với các hậu vệ.
Thật bất ngờ là hai năm sau đó, sau khi thử việc với gã khổng lồ Vasco da Gama, một HLV đã cho rằng Romário quá nhỏ để thi đấu chuyên nghiệp. Ở thời điểm hiện tại, điều này có thể là một cái tát với những tài năng trẻ và khiến họ nhụt chí. Tuy nhiên, đó không phải là Romário.
Hàng thập kỷ sau, ông nói rằng nó chính là động cơ thúc đẩy tham vọng theo đuổi giấc mơ của mình: “Hãy tìm ra ai đó chỉ trích bạn và lấy làm động lực cho chính bản thân mình vượt qua thử thách đó.” Romário ghi bốn bàn vào lưới Vasco trong một trận đấu của giải trẻ trước khi khiến họ suy nghĩ lại và chiêu mộ vào năm 1981.
Sau khi có được một chút tiền bạc, rõ ràng địa vị xã hội của Romário đã được nâng cao. Tài năng của ông đã bị hạn chế đi bởi tinh thần “vô chính phủ” và ngay từ những ngày tháng đầu, đó đã là bằng chứng cho thấy cả hai sẽ đóng vai trò quan trọng định hình nên sự nghiệp của ông.
Tiền đạo này đã bị lôi vào tranh cãi tại World Cup trẻ 1985 khi bị bắt gặp đang đi tiểu ở ban công khách sạn ở Moscow để rồi sau đó bị đuổi về nước trong sự nhục nhã. 3 năm sau, chàng trai với biệt danh Baixinho (Lùn) vì chiều cao chỉ 1m65 đã tỏa sáng trong màu áo Brazil ở Olympic 1988 khi ghi đến 7 bàn trên đường đến trận chung kết. Giải đấu này đã chứng minh rằng Romário khi ở trạng thái cực đỉnh thăng hoa cũng đáng để tha thứ cho những sự vô tổ chức. Và màn trình diễn ấy đã tạo nên một bước đột phá để ông vượt Đại Tây Dương và tới Hà Lan thi đấu cho PSV.
De Rood-Witten, và có lẽ là cả Hà Lan, lúc này đang ở đỉnh cao sức mạnh của mình. HLV Guus Hiddink giúp đội bóng thành phố Eindhoven giành cú ăn ba trong khi Oranje cũng giành chức vô địch Euro năm 1988. Romário trở thành một ngôi sao sáng, một trong những cầu thủ Brazil đầu tiên tạo nên tiếng tăm vang dội khi chuyển đến châu Âu và không lâu sau đó ông đã mang bầu không khí carnival ở quê hương mình tới Hà Lan, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
“Cậu ấy là cầu thủ thú vị nhất mà tôi từng huấn luyện. Nếu tôi hơi căng thẳng trước một trận đấu lớn, cậu ấy sẽ nói ‘Thoải mái đi sếp, tôi sẽ ghi bàn và chúng ta sẽ giành chiến thắng.’ Điều đáng kinh ngạc là đến 8/10 lần cậu ấy đã đúng.” Ngay cả Hiddink cũng bị mê hoặc bởi tài năng thiên bẩm ấy. Trong mùa giải đầu tiên, Romário đã ghi được 19 bàn ở Eredivisie và giúp PSV bảo vệ thành công danh hiệu quốc nội.
Chàng trai sinh ra ở Rio cũng mang tới Eindhoven một cuộc sống về đêm đúng nghĩa. Những bữa tiệc trong nhà của anh trở nên nổi tiếng và tiền đạo này thể hiện một lối sống tự do, phóng khoáng. Anh thậm chí còn mang cát vào rải trong vườn nhà mình để nhìn cho giản dị hơn. Nhìn ra ngoài cửa sổ, khung cảnh ở vùng đất thấp có thể không đem lại niềm vui như khi chứng kiến những con sóng vỗ vào Copacabana nhưng cũng đủ để Romário quên đi cảm giác nhớ nhà và tập trung vào bóng đá.
Và quả thật đúng là như thế. 4 mùa giải tiếp theo mang đến cho ông thêm 2 danh hiệu Eredivisie và hiệu suất bàn thắng đáng kinh ngạc: 127 pha lập công trong 142 trận. Vũ khí của Baixinho là những cú chích bóng bằng đầu ngón chân. Anh bình tĩnh đến mức lạnh lùng, hết lần này đến lần khác khiến các thủ môn phải vào lưới nhặt bóng trong bất lực.
“Khi tôi sinh ra, người đàn ông ở trên trời đã chỉ vào tôi và nói, ‘Chính là cậu bé đó.’” Những tuyên bố táo bạo có phần ngạo mạn như vậy hiếm khi được đón nhận nồng nhiệt. Thế nhưng, với một thiên tài như ông, khi được Barcelona gọi thì đó không phải là điều bất ngờ.
Johan Cruyff đang xây dựng một triều đại ở Tây Ban Nha và với Romário, vị cha già của bóng đá hiện đại đã có một vị ngọc quý trong tay. Đời sống sang trọng ở Catalonia hoàn toàn khác xa so với Jacarezinho, thế nhưng Romário chưa bao giờ bị định hình bởi môi trường xung quanh mình. Thay vào đó, ông tạo ra môi trường chứ không phải trở thành sản phẩm của một cái gì đó.
Đáng tiếc, quãng thời gian của ông tại đây lại chỉ kéo dài hơn 1 mùa giải vì những bất đồng mang tính hệ thống với Cruyff về cách cư xử và tập luyện. Dù vậy, trong khoảng thời gian này những màn trình diễn của ông không có quá nhiều khác biệt. Suốt 18 tháng, ông ghi được 39 bàn – trong đó bao gồm 1 cú hat-trick trong trận El Clásico – và 1 danh hiệu vô địch quốc gia.
Tại Champions League cũng không khác là bao. Ông cùng với Hristo Stoichkov tạo thành cặp đôi hủy diệt nhảy múa trong vòng vây đối thủ, biến những hậu vệ đẳng cấp thế giới trở thành những kẻ bình thường. Blaugrana chỉ còn thiếu một điều cuối cùng để mọi thứ trở nên hoàn hảo thì trận chung kết năm 1994, đoàn quân mang tên AC Milan của Fabio Capello đã phá hỏng tất cả. Nhiều người cho rằng Barcelona đã quá tự mãn và đến Athens vào đêm đó đơn giản nghĩ rằng họ đã có được danh hiệu thay vì quyết đấu để giành lấy nó.
Có lẽ giai thoại hay nhất của câu chuyện này là khoảnh khắc được chính Cruyff nhớ lại. Romário đã hỏi HLV của mình liệu ông có thể nghỉ tập để đến Carnival ở Rio hay không. “Tôi cười và trả lời: ‘Nếu ngày mai cậu ghi 2 bàn.’ Ngày hôm sau, Romário ghi bàn thắng thứ hai sau 20 phút của trận đấu và ngay lập tức ra dấu hiệu cho tôi hỏi xem có được đi hay không. Cậu ta bảo tôi, ‘Huấn luyện viên, máy bay của tôi sẽ rời đi trong 1 giờ nữa!’ Tôi không còn lựa chọn nào khác và đành để cậu ta đi.”
Mùa hè năm 1994 đánh dấu đỉnh cao của Romário. Lúc bấy giờ đã khẳng định một vị trí tại đội tuyển quốc gia mà tiếng Brazil gọi là một “craque” – cầu thủ ngôi sao – được theo dõi ông tung hoành trên sân suốt kỳ World Cup năm ấy có thể xem là một điều tuyệt vời nhất. Ông mở tỷ số trong chiến thắng 3-2 ở vòng tứ kết trước Hà Lan và giữ vững bản lĩnh trên chấm luân lưu ở trận chung kết trước người Ý. Chẳng có giới hạn nào cho người nghệ sĩ ấy, ông đưa Brazil giành chức vô địch thế giới lần thứ tư và sau đó ẵm luôn giải Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA.
Thành công chói lọi đã đưa ông vào trong những câu chuyện bóng đá. Thế nhưng với người Brazil, ông còn hơn cả một siêu sao tầm cỡ toàn cầu. Romário là cầu thủ của mọi người, mọi nhà. Ông sống trong giấc mơ của mọi đứa trẻ khi nghĩ đến Jacarezinho. Ông là sự kết hợp của một kẻ bình thường và một người được tôn vinh như một vị thánh, tất cả lại càng làm củng cố hình tượng của một á thần nơi Romário.
Trở lại Barcelona, lối sống có phần phóng túng của Romário dường như có phần không hợp với một người kỷ luật như Cruyff và ông quyết định trở về quê hương. Flamengo là những người được hưởng lợi dù phải mất quãng thời gian 2 năm ở Valencia trước khi Mengão thực sự khai thác được sự xuất sắc ấy.
Các năm 1998 và 1999, ông thi đấu bùng nổ với tổng cộng 81 bàn thắng. Cả thế giới được chứng kiến một Baixinho mạnh mẽ như suốt quãng thời gian ở châu Âu. Ông cũng tạo nên một cặp Ro-Ro mang tính biểu tượng. Một Ronaldo trẻ trung bắt cặp cùng Romário kinh nghiệm, cả hai thi đấu bùng nổ trên sân khi đưa Brazil đến chức vô địch Copa América 1997 và vượt qua vòng loại World Cup 1998 tại Pháp.
Thế nhưng chấn thương cơ đã lấy đi kỳ World Cup thứ hai của Romário dù ông đã phủ nhận thông tin cho rằng mình không đủ thể lực để thi đấu tại kỳ đại hội bóng đá lớn nhất hành tinh cuối cùng của mình.
4 năm nữa lại trôi qua, ông đã trở về nhà để đầu quân cho Vasco và thêm nhiều những bữa tiệc vui vẻ. Thật khó để nói rằng ai là người sợ ông hơn, cha của những cô gái trong độ tuổi 20 hay các hậu vệ khắp Brazil. Và cuộc sống của ông tiếp tục trôi cùng với những bàn thắng cứ xuất hiện đều đặn. Ở độ tuổi có thể ví như một loại vang hảo hạng, Romário khiến các hậu vệ phải chết lặng bởi kỹ thuật và tốc độ. Giống như Picasso với hội họa hay Hendrix trong guitar, Romário thực sự là bậc thầy ở môn nghệ thuật của mình.
Thời điểm vòng chung kết World Cup 2002 diễn ra, sự quan tâm của đất nước với đội tuyển tại giải đấu thực sự bùng nổ. Thay vì tạo ra một cuộc tranh cãi, HLV Luiz Felipe Scolari khẳng định rằng sự vắng mặt của ông trong đội hình là vì “lý do kỹ chiến thuật”.
Con chim quý khi đó đã 34 tuổi bị từ chối cơ hội được cất tiếng hót thật hay lần cuối cùng. Một chiến dịch đã được khởi xướng – thậm chí được tổng thống Brazil thời điểm đó Fernando Henrique Cardoso ủng hộ - để khiến HLV Scolari cân nhắc lại. Thế nhưng chẳng có ích gì cả. Romário bất đắc dĩ phải chấp nhận quyết định của huấn luyện viên nhưng đồng thời biết được những sự ủng hộ mà mình nhận được. Tình cảm mà ông tạo ra với người Brazil là quá lớn.
Đoạn kết với sự nghiệp bóng đá của Romário – vì giờ đây ông là một chính trị gia – chứng kiến ông trở thành một con người nay đây mai đó. Ông giành danh hiệu vua phá lưới Brasileirão Série A lần thứ 3 ở tuổi 39, giúp Miami FC vào vòng play-off USL-1 lần đầu tiên trong lịch sử và tất nhiên ghi bàn thắng thứ 1000 trong sự nghiệp cho Vasco yêu dấu. Dù cột mốc đó vẫn còn những tranh cãi vì người ta cho rằng nó bao gồm cả những trận đấu ở giải trẻ và các trận không chính thức, thế nhưng di sản vĩnh cửu mà Romário thì là điều chẳng cần phải bàn cãi.
Được Cruyff miêu tả là “cầu thủ xuất sắc nhất từng dẫn dắt” và “một thiên tài trong vòng cấm địa”, không còn gì để nghi ngờ nữa về những dấu ấn mà “Quỷ lùn” tạo ra. Tự tin, ngay thẳng và oai phong lẫm liệt, cho đến ngày nay Romário vẫn là một trong những tiền đạo xuất sắc nhất của thế giới bóng đá. Ông là người tiên phong trong việc ra nước ngoài thi đấu của các cầu thủ Brazil về sau này và chinh phục thế giới bằng một cá tính tự nhiên cùng đôi chân siêu phàm.
Lược dịch từ bài viết Romário: The menacing, outspoken but consistently majestic samba star của tác giả Charlie Carmichael trên These Football Times.
Hay đó là khả năng tạo ra khoảnh khắc kỳ diệu trong những tình huống quan trọng nhất? Nếu một trong số đó, hoặc tất cả, được dùng để định danh thì Romário của Brazil chắc chắn phải là cái tên đầu tiên được nhắc đến trong bất kỳ cuộc tranh luận nào.
Giống như nhiều ngôi sao sáng giá khác của Nam Mỹ, câu chuyện của Romário de Souza Faria bắt đầu bằng hình ảnh quen thuộc: cái nghèo. Sinh năm 1966, anh ra đời ở Jacarezinho – khu ổ chuột lớn thứ hai của Rio de Janeiro. Cha anh, ông Edevair, rất mong con trai thoát khỏi cái đô thị nghèo nàn này và ông đã rất vui khi cậu nhóc bắt đầu thể hiện năng khiếu ở môn thể thao mà ông yêu thích.
Romário gia nhập Olaria ở tuổi 13 và ngay lập tức gây được sự chú ý. Dù vóc dáng nhỏ bé nhưng chàng tiền đạo trẻ khi ấy đã sử dụng trọng tâm thấp cùng đôi chân ngắn nhưng rất khỏe để làm lợi thế cho mình vượt qua đối thủ trước khi họ có thể trở tay. Sở hữu khả năng kiểm soát bóng bậc thầy qua những trận đấu gồm 30 người một đội ở trong những “khu rừng bê tông” cho tới những bãi biển cát trắng, cầu thủ người Brazil ấy thực sự là một cơn ác mộng với các hậu vệ.
Thật bất ngờ là hai năm sau đó, sau khi thử việc với gã khổng lồ Vasco da Gama, một HLV đã cho rằng Romário quá nhỏ để thi đấu chuyên nghiệp. Ở thời điểm hiện tại, điều này có thể là một cái tát với những tài năng trẻ và khiến họ nhụt chí. Tuy nhiên, đó không phải là Romário.
Hàng thập kỷ sau, ông nói rằng nó chính là động cơ thúc đẩy tham vọng theo đuổi giấc mơ của mình: “Hãy tìm ra ai đó chỉ trích bạn và lấy làm động lực cho chính bản thân mình vượt qua thử thách đó.” Romário ghi bốn bàn vào lưới Vasco trong một trận đấu của giải trẻ trước khi khiến họ suy nghĩ lại và chiêu mộ vào năm 1981.
Sau khi có được một chút tiền bạc, rõ ràng địa vị xã hội của Romário đã được nâng cao. Tài năng của ông đã bị hạn chế đi bởi tinh thần “vô chính phủ” và ngay từ những ngày tháng đầu, đó đã là bằng chứng cho thấy cả hai sẽ đóng vai trò quan trọng định hình nên sự nghiệp của ông.
Tiền đạo này đã bị lôi vào tranh cãi tại World Cup trẻ 1985 khi bị bắt gặp đang đi tiểu ở ban công khách sạn ở Moscow để rồi sau đó bị đuổi về nước trong sự nhục nhã. 3 năm sau, chàng trai với biệt danh Baixinho (Lùn) vì chiều cao chỉ 1m65 đã tỏa sáng trong màu áo Brazil ở Olympic 1988 khi ghi đến 7 bàn trên đường đến trận chung kết. Giải đấu này đã chứng minh rằng Romário khi ở trạng thái cực đỉnh thăng hoa cũng đáng để tha thứ cho những sự vô tổ chức. Và màn trình diễn ấy đã tạo nên một bước đột phá để ông vượt Đại Tây Dương và tới Hà Lan thi đấu cho PSV.
De Rood-Witten, và có lẽ là cả Hà Lan, lúc này đang ở đỉnh cao sức mạnh của mình. HLV Guus Hiddink giúp đội bóng thành phố Eindhoven giành cú ăn ba trong khi Oranje cũng giành chức vô địch Euro năm 1988. Romário trở thành một ngôi sao sáng, một trong những cầu thủ Brazil đầu tiên tạo nên tiếng tăm vang dội khi chuyển đến châu Âu và không lâu sau đó ông đã mang bầu không khí carnival ở quê hương mình tới Hà Lan, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
“Cậu ấy là cầu thủ thú vị nhất mà tôi từng huấn luyện. Nếu tôi hơi căng thẳng trước một trận đấu lớn, cậu ấy sẽ nói ‘Thoải mái đi sếp, tôi sẽ ghi bàn và chúng ta sẽ giành chiến thắng.’ Điều đáng kinh ngạc là đến 8/10 lần cậu ấy đã đúng.” Ngay cả Hiddink cũng bị mê hoặc bởi tài năng thiên bẩm ấy. Trong mùa giải đầu tiên, Romário đã ghi được 19 bàn ở Eredivisie và giúp PSV bảo vệ thành công danh hiệu quốc nội.
Chàng trai sinh ra ở Rio cũng mang tới Eindhoven một cuộc sống về đêm đúng nghĩa. Những bữa tiệc trong nhà của anh trở nên nổi tiếng và tiền đạo này thể hiện một lối sống tự do, phóng khoáng. Anh thậm chí còn mang cát vào rải trong vườn nhà mình để nhìn cho giản dị hơn. Nhìn ra ngoài cửa sổ, khung cảnh ở vùng đất thấp có thể không đem lại niềm vui như khi chứng kiến những con sóng vỗ vào Copacabana nhưng cũng đủ để Romário quên đi cảm giác nhớ nhà và tập trung vào bóng đá.
Và quả thật đúng là như thế. 4 mùa giải tiếp theo mang đến cho ông thêm 2 danh hiệu Eredivisie và hiệu suất bàn thắng đáng kinh ngạc: 127 pha lập công trong 142 trận. Vũ khí của Baixinho là những cú chích bóng bằng đầu ngón chân. Anh bình tĩnh đến mức lạnh lùng, hết lần này đến lần khác khiến các thủ môn phải vào lưới nhặt bóng trong bất lực.
“Khi tôi sinh ra, người đàn ông ở trên trời đã chỉ vào tôi và nói, ‘Chính là cậu bé đó.’” Những tuyên bố táo bạo có phần ngạo mạn như vậy hiếm khi được đón nhận nồng nhiệt. Thế nhưng, với một thiên tài như ông, khi được Barcelona gọi thì đó không phải là điều bất ngờ.
Johan Cruyff đang xây dựng một triều đại ở Tây Ban Nha và với Romário, vị cha già của bóng đá hiện đại đã có một vị ngọc quý trong tay. Đời sống sang trọng ở Catalonia hoàn toàn khác xa so với Jacarezinho, thế nhưng Romário chưa bao giờ bị định hình bởi môi trường xung quanh mình. Thay vào đó, ông tạo ra môi trường chứ không phải trở thành sản phẩm của một cái gì đó.
Đáng tiếc, quãng thời gian của ông tại đây lại chỉ kéo dài hơn 1 mùa giải vì những bất đồng mang tính hệ thống với Cruyff về cách cư xử và tập luyện. Dù vậy, trong khoảng thời gian này những màn trình diễn của ông không có quá nhiều khác biệt. Suốt 18 tháng, ông ghi được 39 bàn – trong đó bao gồm 1 cú hat-trick trong trận El Clásico – và 1 danh hiệu vô địch quốc gia.
Tại Champions League cũng không khác là bao. Ông cùng với Hristo Stoichkov tạo thành cặp đôi hủy diệt nhảy múa trong vòng vây đối thủ, biến những hậu vệ đẳng cấp thế giới trở thành những kẻ bình thường. Blaugrana chỉ còn thiếu một điều cuối cùng để mọi thứ trở nên hoàn hảo thì trận chung kết năm 1994, đoàn quân mang tên AC Milan của Fabio Capello đã phá hỏng tất cả. Nhiều người cho rằng Barcelona đã quá tự mãn và đến Athens vào đêm đó đơn giản nghĩ rằng họ đã có được danh hiệu thay vì quyết đấu để giành lấy nó.
Có lẽ giai thoại hay nhất của câu chuyện này là khoảnh khắc được chính Cruyff nhớ lại. Romário đã hỏi HLV của mình liệu ông có thể nghỉ tập để đến Carnival ở Rio hay không. “Tôi cười và trả lời: ‘Nếu ngày mai cậu ghi 2 bàn.’ Ngày hôm sau, Romário ghi bàn thắng thứ hai sau 20 phút của trận đấu và ngay lập tức ra dấu hiệu cho tôi hỏi xem có được đi hay không. Cậu ta bảo tôi, ‘Huấn luyện viên, máy bay của tôi sẽ rời đi trong 1 giờ nữa!’ Tôi không còn lựa chọn nào khác và đành để cậu ta đi.”
Mùa hè năm 1994 đánh dấu đỉnh cao của Romário. Lúc bấy giờ đã khẳng định một vị trí tại đội tuyển quốc gia mà tiếng Brazil gọi là một “craque” – cầu thủ ngôi sao – được theo dõi ông tung hoành trên sân suốt kỳ World Cup năm ấy có thể xem là một điều tuyệt vời nhất. Ông mở tỷ số trong chiến thắng 3-2 ở vòng tứ kết trước Hà Lan và giữ vững bản lĩnh trên chấm luân lưu ở trận chung kết trước người Ý. Chẳng có giới hạn nào cho người nghệ sĩ ấy, ông đưa Brazil giành chức vô địch thế giới lần thứ tư và sau đó ẵm luôn giải Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA.
Thành công chói lọi đã đưa ông vào trong những câu chuyện bóng đá. Thế nhưng với người Brazil, ông còn hơn cả một siêu sao tầm cỡ toàn cầu. Romário là cầu thủ của mọi người, mọi nhà. Ông sống trong giấc mơ của mọi đứa trẻ khi nghĩ đến Jacarezinho. Ông là sự kết hợp của một kẻ bình thường và một người được tôn vinh như một vị thánh, tất cả lại càng làm củng cố hình tượng của một á thần nơi Romário.
Trở lại Barcelona, lối sống có phần phóng túng của Romário dường như có phần không hợp với một người kỷ luật như Cruyff và ông quyết định trở về quê hương. Flamengo là những người được hưởng lợi dù phải mất quãng thời gian 2 năm ở Valencia trước khi Mengão thực sự khai thác được sự xuất sắc ấy.
Các năm 1998 và 1999, ông thi đấu bùng nổ với tổng cộng 81 bàn thắng. Cả thế giới được chứng kiến một Baixinho mạnh mẽ như suốt quãng thời gian ở châu Âu. Ông cũng tạo nên một cặp Ro-Ro mang tính biểu tượng. Một Ronaldo trẻ trung bắt cặp cùng Romário kinh nghiệm, cả hai thi đấu bùng nổ trên sân khi đưa Brazil đến chức vô địch Copa América 1997 và vượt qua vòng loại World Cup 1998 tại Pháp.
Thế nhưng chấn thương cơ đã lấy đi kỳ World Cup thứ hai của Romário dù ông đã phủ nhận thông tin cho rằng mình không đủ thể lực để thi đấu tại kỳ đại hội bóng đá lớn nhất hành tinh cuối cùng của mình.
4 năm nữa lại trôi qua, ông đã trở về nhà để đầu quân cho Vasco và thêm nhiều những bữa tiệc vui vẻ. Thật khó để nói rằng ai là người sợ ông hơn, cha của những cô gái trong độ tuổi 20 hay các hậu vệ khắp Brazil. Và cuộc sống của ông tiếp tục trôi cùng với những bàn thắng cứ xuất hiện đều đặn. Ở độ tuổi có thể ví như một loại vang hảo hạng, Romário khiến các hậu vệ phải chết lặng bởi kỹ thuật và tốc độ. Giống như Picasso với hội họa hay Hendrix trong guitar, Romário thực sự là bậc thầy ở môn nghệ thuật của mình.
Thời điểm vòng chung kết World Cup 2002 diễn ra, sự quan tâm của đất nước với đội tuyển tại giải đấu thực sự bùng nổ. Thay vì tạo ra một cuộc tranh cãi, HLV Luiz Felipe Scolari khẳng định rằng sự vắng mặt của ông trong đội hình là vì “lý do kỹ chiến thuật”.
Con chim quý khi đó đã 34 tuổi bị từ chối cơ hội được cất tiếng hót thật hay lần cuối cùng. Một chiến dịch đã được khởi xướng – thậm chí được tổng thống Brazil thời điểm đó Fernando Henrique Cardoso ủng hộ - để khiến HLV Scolari cân nhắc lại. Thế nhưng chẳng có ích gì cả. Romário bất đắc dĩ phải chấp nhận quyết định của huấn luyện viên nhưng đồng thời biết được những sự ủng hộ mà mình nhận được. Tình cảm mà ông tạo ra với người Brazil là quá lớn.
Đoạn kết với sự nghiệp bóng đá của Romário – vì giờ đây ông là một chính trị gia – chứng kiến ông trở thành một con người nay đây mai đó. Ông giành danh hiệu vua phá lưới Brasileirão Série A lần thứ 3 ở tuổi 39, giúp Miami FC vào vòng play-off USL-1 lần đầu tiên trong lịch sử và tất nhiên ghi bàn thắng thứ 1000 trong sự nghiệp cho Vasco yêu dấu. Dù cột mốc đó vẫn còn những tranh cãi vì người ta cho rằng nó bao gồm cả những trận đấu ở giải trẻ và các trận không chính thức, thế nhưng di sản vĩnh cửu mà Romário thì là điều chẳng cần phải bàn cãi.
Được Cruyff miêu tả là “cầu thủ xuất sắc nhất từng dẫn dắt” và “một thiên tài trong vòng cấm địa”, không còn gì để nghi ngờ nữa về những dấu ấn mà “Quỷ lùn” tạo ra. Tự tin, ngay thẳng và oai phong lẫm liệt, cho đến ngày nay Romário vẫn là một trong những tiền đạo xuất sắc nhất của thế giới bóng đá. Ông là người tiên phong trong việc ra nước ngoài thi đấu của các cầu thủ Brazil về sau này và chinh phục thế giới bằng một cá tính tự nhiên cùng đôi chân siêu phàm.
Lược dịch từ bài viết Romário: The menacing, outspoken but consistently majestic samba star của tác giả Charlie Carmichael trên These Football Times.
Nguồn : Trên Đường Pitch
No comments